Cách mạng Tháng Tám – Sự nghiệp của nhân dân

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mùa thu năm 1945 đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của đất nước và dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Ðó là một sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận được.

Nhưng nếu đặt ra câu hỏi Cách mạng Tháng Tám là sự nghiệp của ai, do ai và vì ai, thì câu trả lời không hẳn chỉ có một.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ðã có thời, các thế lực phản động ngoan cố làm tay sai cho giặc hùa nhau đả kích, coi Cách mạng Tháng Tám chỉ là cuộc nổi loạn của những kẻ bần cùng, khố rách, áo ôm, do cộng sản xúi bẩy. Một số phần  tử khoác áo quốc gia trắng trợn xuyên tạc lịch sử, rằng “Tổng khởi nghĩa là do quốc gia đề xướng nhưng cộng sản nhảy ra cướp công”. Lại có những kẻ thiếu hiểu biết, hoặc có dụng ý xấu, cho rằng năm 1945, Việt Minh gặp cái may hiếm có là Pháp thì bị Nhật lật đổ, rồi Nhật lại bị Ðồng minh đánh bại, tình hình chính trị giống như một trái chín cây đang rụng, Việt Minh mau tay, lẹ chân chìa ra hứng chứ chẳng có tài ba, công trạng gì.

Sự thật thế nào?

Ðể có câu trả lời đúng, không thể không xem xét một cách toàn diện, từ tính chất cuộc cách mạng đến quy mô, lực lượng tham gia và thành quả đạt được.

Ngay từ đầu, từ Hội nghị lần thứ tám của Trung ương (năm 1941), Ðảng ta đã xác định đây là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng trước mắt tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Nghị quyết Hội nghị T.Ư lần thứ tám tháng 5-1941 nêu rõ: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” (1).

Giữa tháng Tám năm 1945, khi pháo lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát ra, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: “Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân” (2).

Ðường lối cách mạng ấy, những lời kêu gọi hào hùng và thống thiết ấy đã đi vào lòng người và biến thành một sức mạnh vật chất to lớn. Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám đã nổ ra, đúng là cuộc nổi dậy của toàn dân, một cuộc khởi nghĩa mà cả dân tộc “nhất tề đứng lên”, triệu người như một, “nhất hô thiên vạn ứng”. Tiêu biểu nhất, điển hình nhất, cũng là đỉnh điểm cao nhất của Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám là ba cuộc khởi nghĩa nối tiếp thành công ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8) và Sài Gòn (25-8).

Cách mạng Tháng Tám được nói đến như là một cuộc nổi dậy chớp nhoáng và thành công ngoạn mục, một cuộc Khởi nghĩa không đổ máu, một cuộc cách mạng hòa bình.

Ðúng là như vậy.

Nếu kể từ khi pháo lệnh Tổng khởi nghĩa được phát ra từ Tân Trào đêm 13-8 cho đến khi khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn ngày 25-8, thì thời gian đó là 12 ngày. Nếu tính đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Ðộc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2-9 thì thời gian đó cũng không quá ba tuần lễ.

Phải chăng ở đây, có một phép mầu kỳ diệu? Không. Sở dĩ Cách mạng Tháng Tám thành công nhanh chóng và ngoạn mục như vậy là bởi nó đã trải qua một quá trình chuẩn bị dài lâu, suốt 15 năm kể từ ngày Ðảng ta ra đời, năm 1930. Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 và Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 là ba cuộc diễn tập lớn. Cao trào cứu nước 1940 – 1945 là bước chuẩn bị trực tiếp và có ý nghĩa quyết định.

Cách mạng Tháng Tám nổ ra ngay sau khi phát-xít Nhật đầu hàng Ðồng minh. Bốn vạn quân Nhật có mặt trên đất nước ta được trang bị đến tận răng, với bộ chỉ huy hùng hổ của nó, như kẻ đang ngồi trên cành cao mà gốc cây đã bị cưa đổ, cực kỳ hoang mang, lo lắng. Họ chờ một tín hiệu, không phải từ Thiên Hoàng mà từ bộ chỉ huy cách mạng ở Hà Nội. Ta kêu gọi họ không can thiệp vào công việc nội bộ của ta, hứa bảo đảm an toàn cho họ, chờ ngày về nước.

Vua Bảo Ðại và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, trước uy thế và thần vũ của cách mạng, nhìn thế cuộc mà lòng rối bời, không biết số phận sẽ ra sao. Vì đại nghĩa dân tộc và bằng một chính sách nhân ái, khoan dung, cách mạng đã mở đường cho họ. Vua Bảo Ðại thoái vị, rằng “làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”. Chính quyền bù nhìn bị giải thể, một bộ phận lớn ngả về phía nhân dân.

Thắng lợi của Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám là thắng lợi của một cuộc khởi nghĩa hòa bình, chủ yếu bằng sức mạnh chính trị của nhân dân. Các lực lượng vũ trang đương nhiên có vị trí rất quan trọng làm tăng thêm sức mạnh chính trị và uy hiếp kẻ thù. Kẻ thù đã không thể, không dám và cũng không muốn dùng bạo lực để chống lại cách mạng. Ta thắng nhanh vì có sức mạnh áp đảo về chính trị và tinh thần.

Tuy vậy, nói Khởi nghĩa Tháng Tám là hòa bình, không đổ máu thì cũng phải hiểu rằng, đó chính là kết quả cuối cùng của 15 năm đấu tranh đầy xương máu của nhân dân ta.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thật là ngoạn mục. Như Tuyên ngôn Ðộc lập đã nêu rõ:

“… Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Ðại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập lên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Cách mạng Tháng Tám đưa lại nhiều bài học lớn. Nổi lên hàng đầu là bài học về sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, và về vai trò và sức mạnh của nhân dân trong cách mạng. Hai chữ “dân ta” trong đoạn trích dẫn Tuyên ngôn Ðộc lập trên đây chỉ rõ nhân dân là chủ thể của cách mạng, là người tạo dựng nên những thành tựu của cách mạng, cũng là người kiên quyết giữ vững và phát huy những thành tựu cách mạng ấy. Nhân dân – hay dân chúng, quần chúng theo thuật ngữ thường  dùng trước đây – không còn là đối tượng cai trị của các thế lực cầm quyền dưới chế độ cũ, không phải là công cụ mà các thế lực chính trị dưới chủ nghĩa tư bản sử dụng cho mục đích cạnh tranh quyền lực. Nhân dân dưới chế độ mới của ta chính là chủ thể của quyền lực. Ðảng lãnh đạo cách mạng là để cho nhân dân trở thành người chủ và làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Với ý nghĩa đó, có đầy đủ lý do để khẳng định mạnh mẽ rằng: Cách mạng Tháng Tám là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Tổng kết 80 năm hoạt động của mình, Ðảng ta, qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn.

Bài học thứ hai nêu rõ: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Ðảng”.

Bài học quý giá này được rút ra từ thực tiễn cách mạng phong phú đã qua, trong đó có thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám, tuyệt nhiên không chỉ để chiêm nghiệm hay tôn thờ mà là để chỉ đạo hành động cách mạng hiện nay và sắp tới.

Bài học thứ hai phải được thực hành đúng và tốt trong tiến trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Bởi một lẽ rất giản đơn: sự nghiệp đổi mới chính là sự nghiệp cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

(1): Văn kiện Ðảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Tập 7, Tr.113

(2): Sđd – Tập 7, Tr.558

Tháng 8 năm 2013

nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm
Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.